NEW YORK (Reuters) – Đồng đô la tăng cao hơn so với các loại tiền tệ chính trong giao dịch biến động vào thứ 3, trên đà tăng hàng tháng đầu tiên kể từ tháng 9 với quan điểm lãi suất sẽ tiếp tục tăng trong một thời gian do lạm phát vẫn ở mức cao, trong khi lo ngại suy thoái kinh tế khiến các nhà đầu tư đứng ngoài cuộc.

Dữ liệu lạc quan gần đây như báo cáo việc làm bom tấn tháng 1, đã giúp đồng bạc xanh tăng giá trong tháng 2 do kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang sẽ phải tăng lãi suất cao hơn và lâu hơn dự đoán trước đó của thị trường để chống lại lạm phát.
Lãi suất tương lai của Hoa Kỳ được định giá bằng lãi suất chính sách mục tiêu của Cục Dự trữ Liên bang, đạt đỉnh là 5.4% vào tháng 9, trong khi phần lớn việc cắt giảm lãi suất trong năm nay đã được định giá. Lãi suất chính sách của Fed hiện nằm trong phạm vi mục tiêu từ 4.50% đến 4.75%.
Chỉ số đô la, đo lường tiền tệ so với rổ các đồng tiền ngang giá, tăng khoảng 0.22% lên thành 104.88 vào lúc 3:20 chiều ET (2020 GMT), đang trên đà đạt được mức tăng hàng tháng là 2.7%.
Trong khi đó, dữ liệu vào thứ 3 cho thấy rằng các dấu hiệu của các đợt Fed tăng lãi suất bắt đầu có tác dụng nhằm mục đích hạ nhiệt nền kinh tế đang nóng đỏ. Điều này đã gây áp lực nhẹ lên đồng đô la.

“Giữa biển tin tức đáng nản lòng, dữ liệu về niềm tin của người tiêu dùng Hoa Kỳ được công bố sáng nay là lạnh như băng, thuận lợi cho việc chống lạm phát, nhưng với chi phí ngụ ý đáng kể – giảm chi tiêu của người tiêu dùng, chiếm khoảng 70% GDP của đất nước” – ông Jose Torres, nhà kinh tế cấp cao tại Interactive Brokers (NASDAQ:IBKR) cho biết.
Niềm tin của người tiêu dùng Hoa Kỳ bất ngờ giảm trong tháng 2, giảm xuống 102.9 từ mức 106 trong tháng 1. Các nhà kinh tế tham gia khảo sát của Reuters đã dự báo chỉ số này sẽ là 108.5.
Một báo cáo khác cho thấy giá nhà ở dành cho một gia đình ở Hoa Kỳ tăng với tốc độ chậm nhất trong tháng 12 kể từ mùa hè năm 2020, với chỉ số giá nhà quốc gia S&P CoreLogic Case Shiller tăng 5.8% so với cùng kỳ năm ngoái. Cuộc khảo sát kinh doanh PMI của Chicago cho tháng 2 cũng yếu hơn so với dự kiến.
Thị trường chờ đợi dữ liệu việc làm tháng 2 vào ngày 10 tháng 3 tới đây cùng với chỉ số giá tiêu dùng vào ngày 14 tháng 3 bởi cả hai đều có thể có sự ảnh hưởng đến chính sách lãi suất của Fed.
Vassili Serebriakov, chiến lược gia ngoại hối tại UBS cho biết: “Câu chuyện giảm phát vẫn tiếp tục. Nó đã tạm dừng một chút vào tháng 1, nhưng nó không phải là một sự đảo ngược. Chúng tôi nghĩ rằng một số sức mạnh của đồng đô la đã bị phóng đại. Vì vậy, chúng tôi đang làm suy yếu sức mạnh của đồng đô la một cách thận trọng”.
Đồng đô la tại thời điểm trước đó vào thứ Ba đã ghi nhận mức cao nhất trong hơn hai tháng so với đồng yên Nhật, leo lên mức 136.93 yên, trước khi đảo chiều tăng sau dữ liệu của Hoa Kỳ. Đồng đô la cuối cùng cũng đã giảm 0.06% so với đồng yên ở mức 136.15.
Chính sách giữ lãi suất thấp của Nhật Bản có nghĩa là đồng yên rất nhạy cảm với những động thái khác. Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) – ông Kazuo Ueda tuần này đã cho biết còn quá sớm để có thể bình luận về cách ngân hàng trung ương thay đổi chính sách.
Vào thứ Ba, Phó Thống đốc sắp tới Shinichi Uchida đã gạt bỏ cơ hội sửa đổi ngay lập tức chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo của BOJ.
Đồng yên cũng giảm xuống mức yếu nhất trong hai tháng so với đồng euro và bảng Anh.
Ở những nơi khác, đồng euro giảm 0.25% so với đồng đô la xuống còn 1.0583 đô la. Trước đó, nó đã nhận được một số hỗ trợ từ dữ liệu lạm phát cao hơn mong đợi của Pháp, khiến lợi suất ngắn hạn của khu vực đồng euro lên mức cao nhất trong ít nhất một thập kỷ. [GVD/EUR]
Trong khi đó, đồng bảng Anh đã trả lại một số lợi nhuận từ phiên trước đó so với đồng đô la, giảm 0.09% xuống còn 1.2052 đô la.
Nó đã tăng 1% vào thứ Hai sau khi Anh và Liên minh châu Âu công bố một thỏa thuận mới cho các thỏa thuận thương mại hậu Brexit cho Bắc Ireland, được gọi là Khung Windsor.
Điều đó làm sáng tỏ triển vọng cho nền kinh tế Vương quốc Anh thời hậu Brexit, với việc Thủ tướng Anh Rishi Sunak nói rằng điều đó sẽ dọn đường cho một chương mới trong mối quan hệ của London với khối.